Sơ Lược Lịch Sử Truyền Giáo Của
Các giáo sĩ
Báp-tít Nam Phương đến Việt Nam truyền giáo từ năm 1959 đến năm 1975. Gia đình giáo sĩ đầu tiên đến Việt Nam học
ngôn ngữ, tập quán, phong tục để có thể truyền giáo cho người Việt Nam là gia
đình ông bà giáo sĩ Herman Hayes. Kế
đến là các ông bà giáo sĩ William Roberson, Samuel Longbottom, Lewis Myers,
Samuel James, Robert Davis, Ron Merrell, Earl Beengs, Peyton Moore, Robert
Compher, Walter Routh, Jim Gayle, James Kellum, Joe Turman, David Wigger, Gene
Tunnell, Ken Goad. Ông bà Jim Humphries
đến Việt Nam hầu việc Chúa trong tư cách tuyên úy. Ngoài ra, còn có nhiều thanh niên, thiếu nữ độc thân đến để hổ
trợ cho công tác truyền giáo với nhiệm kỳ hai năm trong đó có David Lincohnhocker,
George Pickle, Mary Kay Johnson, Rosalie Beck, Karen Russey Gross.
Các giáo sĩ cùng
với gia đình đến Việt Nam truyền giáo để chu toàn mạnh lịnh của Chúa trong
Ma-thi-ơ 28:18-20 Ðức Chúa Jêsus đến
gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã
giao cho ta. Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhơn danh Ðức Cha, Ðức Con, và
Ðức Thánh Linh mà làm phép báp-têm cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta
đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.
Những hội thánh
được thành lập bao gồm Hội Thánh Ân Ðiển, Hội Thánh Bình An tại Sài Gòn, Hội
Thánh Ðức Tin, Chi Hội Hàng Xanh tại Gia Ðịnh, Hội Thánh Phú Thọ Hòa, Hội Thánh
Bình Tiên tại Chợ Lớn. Tại Miền Trung,
ngay tại Ðà Nẵng có Hội Thánh Hy Vọng với nơi nhóm lại thật khang trang và cách
tổ chức rất qui củ. Công việc Chúa tại
nơi này phần lớn do Ông Bà Giáo Sĩ Lewis Myers gầy dựng với các tín hữu đầy
lòng sốt sắng, nhiệt thành. Tại Quảng
Ngãi có nhiều nhóm tín hữu nhóm lại dưới sự hướng dẫn và huấn luyện của Ông Bà
Giáo Sĩ Walter Routh. Tại Huế Ông Bà
Giáo Sĩ Robert Davis thành lập được một
hội thánh ngay tại thành nội với sự nhóm lại rất trang nghiêm. Qui Nhơn là nơi Ông Bà Giáo Sĩ Robert
Compher hầu việc Chúa. Hội Thánh nơi
này có nơi nhóm lại rất tốt do Ông Bà Giáo Sĩ Robert Compher cùng các tuyên úy
và các tín hữu Việt Nam góp công xây cất.
Hội Thánh tại Nha Trang do Mục Su Nguyễn Xuân Cảnh đảm nhiệm với sự hỗ
trợ của các giáo sĩ. Chi Hội ở Phước
Hải là địa điểm truyền giáo khá gần Nha Trang.
Ông Bà Giáo Sĩ Jim Gayles đến hầu việc Chúa tại Cam Ranh. Tại đây có Giáo Sư Nguyễn Xuân Hà nguyên là
Thanh Tra Trung học Cam Ranh và là người lãnh đạo đầy khả năng. Dưới sự hướng dẫn của ông và sự hỗ trợ của
các giáo sĩ và các tuyên úy, một Cô Nhi Viện được thành lập. Vào cuối Tháng Tư năm 1975, các em cô nhi
tại Cô Nhi Viện này được đưa vào Miền Nam và sau đó được đưa sang Hoa Kỳ. Tại Ðà Lạt có Hội Thánh Ðức Tin được thành
lập với một số gia đình tín hữu. Ðây là
nơi các giáo sĩ được đưa đến để học Việt Ngữ trước khi đảm nhận nhiệm sở. Tại Cần Thơ Ông Bà Giáo Sĩ Herman Hayes là
người đã gầy dựng và tiếp tục truyền giáo cho đến khi phải rời khỏi Việt
Nam. Vào năm 1969 có một chương trình
truyền giảng được phát động từ những nơi được kể đến trên đây. Số người tin Chúa qua chương trình truyền
giảng này tuy ít như chính chương trình này đã đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong công tác truyền giáo của Giáo Hội Báp Tít Nam Phương.
Trụ sở của Cơ Quan Truyền Giáo tọa lạc tại 111 Chi Lăng, Phú Nhuận. Trong 5 năm đầu thập niên 1970, trụ sở này là văn phòng trung ương của Hội Truyền Giáo. Phần trong cùng của cơ sở được dùng làm nơi cư ngụ cho hai gia đình giáo sĩ. Phần trước là Phòng Sách gắn liền với Cơ Quan Tu Thư Và Ấn Loát do Giáo Sĩ William Roberson làm Giám Ðốc. Cùng làm việc với ông có Ông Lê Văn Hòa đặc trách về tu thư và Ông Trịnh Ngọc Thanh đặc trách về ấn loát cùng các nhân viên khác.
Công tác xã hội
do Tiến Sĩ Gene V. Tunnell hướng dẫn.
Công tác y tế do Bà Giáo Sĩ Rachel James đảm trách. Từ những xe y tế lưu động nhiều bệnh nhân
được chẩn bệnh và phát thuốc miễn phí.
Chương trình Học Kinh Thánh Hàm Thụ Và Phát Thanh do Giáo Sĩ Peyton
Moore chuẩn bị với sự cọng tác của Mục Sư Ðỗ Văn Dũng.
Viện Thần Học
Báp-tít Việt Nam được thành lập ở Thủ Ðức và sau đó được dời về 33-B Nguyễn Văn
Trương, Gia Ðịnh. Người đã gầy dựng,
chăm sóc và mang hết tâm tình, năng lực
phục vụ trong tư cách Viện Trưởng từ thuở ban đầu cho đến khi Viện Thần
Học phải đóng cửa làTiến Sĩ Samuel
James. Giáo ban của Viện Thần Học gồm
các giáo sĩ trong nước cũng như ngoài nước.
Tiến Sĩ Leo Crisman là người đã tận tụy gầy dựng một thư viện trên 3,000
cuốn sách rất giá trị. Những người đã
hoàn tất học trình cử nhân thần học của Viện Thần Học Báp-tít Việt Nam là các
mục sư Lê Quốc Chánh, Ðỗ Vĩnh Thành, Trương Văn Hy, Ðào Văn Chinh, Ðỗ Văn Dũng
và Dư Kiện Sanh. Song song với việc đào
tạo người hầu việc Chúa trong học trình cử nhân thần học, Viện Thần Học còn có
chương trình huấn luyện nữ giáo viên.
Chương trình huấn luyện này do Cô Olive Allen và các bà giáo sĩ đảm
trách. Từ đầu năm 1974 đến tháng 4 năm
1975 Viện Thần Học còn phát triển chương trình huấn luyện cho các lãnh đạo được
những hội thánh quanh vùng cử đến tham dự.
Trong khoảng đầu năm 1975 Mục Sư
Ðào Văn Chinh là người đảm nhận chức vụ Xử Lý Thường Vụ Viện Trưởng Viện Thần
Học Báp Tít Việt Nam cho đến khi cơ sở của viện phải trao cho tân chánh quyền.