Lịch
sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam
I. Giai đoạn tiên khởi.
Tấn sĩ W. M.
Turnbull, Phó Hội trưởng Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp đã nói rằng: Bất cứ
nơi nào mà việc truyền giáo bị khóa chặt, nghĩa là một nơi chưa được nghe rao
giảng Tin Lành của Ðấng Christ, thì sẽ thấy giáo sĩ thuộc Hội Truyền Giáo Phúc
Âm Liên Hiệp đến đóng trại trước ngạch cửa để chờ đợi, hễ có cơ hội là bước
vào, câu nói đó rất đúng với trường hợp nước Việt Nam. Tại Ðông Dương thuộc
Pháp, Việt Nam là mục tiêu đầu tiên của Tấn sĩ A. B. Simpson ngay từ khi ông
mới sáng lập Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp năm 1897. Các giáo sĩ của Hội
Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp ở miền nam Trung Hoa luôn luôn hướng tầm mắt vào
Việt Nam.
Năm 1887, Tấn sĩ
A. B. Simpson đã viết trong tờ tạp chí "Word and World" như sau: Miền
Bán đảo Ðông Nam Á đã bị quên lãng từ lâu. Quốc gia Việt Nam cần được soi sáng
Tin Lành của Ðấng Christ. Tại sao những người phục vụ Cứu Chúa không đặt Việt
Nam ngang hàng với Tây Tạng, thiết lập chiến trường thuộc linh mới, hầu tranh
thủ nhiều linh hồn tội nhân về với Ngài.
Mùa hè năm 1893,
Tấn sĩ David Leclaccheuz, cộng sự viên của Tấn sĩ Simpson đến thăm Sàigòn. Khi
trở về, ông đã tường trình và cho biết cánh cửa tại Việt Nam cũng như toàn xứ
Ðông Dương thuộc Pháp đã mở cho việc giảng Tin Lành. Qua năm sau, Tấn sĩ
Simpson cho biết rằng Sudan, Tây Tạng và Việt Nam là ba địa hạt truyền giáo
quan trọng chưa được khai thác để qui sự vinh hiển về cho Cứu Chúa.
Tuy nhiên, mãi
đến năm 1897 mới chỉ có một giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp được
phép bước chân vào Ðông Dương thuộc Pháp để thăm viếng và chỉ vỏn vẹn thăm
viếng mà thôi, không được truyền giáo. Ðó là Giáo sĩ C. H. Reeves, từ Long Châu
vượt biên giới Hoa Việt vào miền Bắc rồi đến Lạng Sơn. Khi trở về, ông đã phúc
trình với Giáo Hội: "Tôi được các sĩ quan và binh sĩ Pháp tiếp đãi rất
lịch sự. Họ ở đây rất đông, nơi nào có độ một trăm người dân thì có một đồn
lính. Trong suốt thời gian ở miền Bắc, tôi được các binh sĩ Việt Nam và Pháp hộ
tống".
Năm 1889, Giáo
sĩ R. A. Jaffray tuy là tân Giáo sĩ ở miền nam Trung Hoa, nhưng lại đóng một
vai trò rất đắc lực trong việc mở mang rao giảng Tin Lành tại Ðông Dương. Giáo
sĩ Jaffray cũng vượt biên giới Hoa Việt theo cách của Giáo sĩ Reeves, đi đường
thủy theo sông Hồng Hà xuống tận thủ đô Hà Nội. Nhưng ông cũng chưa đặt được
điểm tựa nào cho công việc truyền giáo. Năm 1901, ông về nghỉ hạn ở Mỹ, ông tìm
gặp ông bà Lylvan Dayan người Gia Nã Ðại thuộc Pháp, với hi vọng đề cử ông bà
này sang Việt Nam, vì người nói tiếng Pháp vào xứ thuộc Pháp dễ dàng hơn người
nói tiếng Anh. Sau đó Hội Truyền giáo sai phái ông bà Dayan qua Việt Nam. Năm
1902, họ vào hải cảng Hải Phòng với kế hoạch nhằm mở một trụ sở giảng Tin Lành
tại Bắc kỳ, nhưng vì tình thế chưa thuận tiện, năm sau họ phải trở lại Trung
Hoa.
Vào năm 1905,
tỉnh Long Châu, thuộc địa hạt Hoa Nam, được dùng làm trung tâm truyền giáo. Họ
hi vọng trạm này có thể dùng làm bàn đạp để đưa Tin Lành vượt biên giới Hoa
Việt vào miền bắc Việt Nam. Nhưng về sau Hội Truyền Giáo nhận thấy cách nầy chỉ
có thể giảng Tin Lành cho những người di cư sang lập nghiệp ở Trung Hoa, chứ
không giảng trực tiếp cho dân tộc Việt Nam được. Vả lại người Pháp cũng không
thích để Hội Truyền Giáo đi vào cửa sau bằng cách ấy, nên họ đã cho phép giáo
sĩ vào một trong các hải cảng lớn ở Việt Nam.
Ðến mùa xuân năm
1911, các Giáo sĩ R. A. Jaffay, Paul M. Hosler và G. Lloyd Huglers đến hải cảng
Tourane, ở Trung phần Việt Nam. Họ mua được một cơ sở ở góc đường Khải Ðịnh, số
66 và đường Nguyễn Hoàng, số 67 để làm trụ sở truyền giáo, đó là trụ sở đầu
tiên của hội. Sau khi hoàn tất công tác, họ trở lại Trung Hoa. Giáo sĩ Jaffray
không được phép làm giáo sĩ thường xuyên tại Việt Nam, Giáo sĩ Huglers được gọi
về Nữu-ước để lảnh nhiệm vụ cao trọng hơn nên chỉ còn Giáo sĩ Hosler trở lại
Ðông Dương một mình. Ông khởi sự học tiếng Việt và đồng thời bắt đầu giảng Tin
Lành. (Trích quyển Bốn mươi sáu năm chức vụ, hồi ký của Mục sư Lê Văn Thái).
II. Sự thành hình của Hội
thánh Tin Lành Việt Nam.
Công việc gần
như bị ngưng lại khi người Pháp trục xuất 5 trong số 9 giáo sĩ vào cuối năm
1915. Qua năm 1916, Giáo sĩ R. A. Jaffray, đại diện Hội Truyền Giáo vùng nam
Trung Hoa và Ðông Dương được quan Tổng Ðốc Toàn Quyền hứa cho truyền giáo ở Ðà
Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng và ở miền Nam. Với số giáo sĩ khoảng 12 người, Hội
Truyền Giáo đã mở các chi nhánh ở Hà Nội (1916) và Hải Phòng (1918) ở miền Bắc;
Sài Gòn (1918), Sa Ðéc (1922), Châu Ðốc (1922), Cần Thơ (1922), Vỉnh Long
(1926) và Biên Hòa (1926) ở miền Nam; Phnom Penh (1923) và Battambang (1923) ở
Cam-bô-chia.
Sau 16 năm hoạt
động, kết quả đầu tiên gặt hái được vào tháng 3 năm 1927: 74 Hội thánh với
4.236 tín đồ rải rác từ miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam và Cam-bô-chia đã kết hợp
với nhau thành Hội Tin Lành Ðông Pháp (Evangelical Church of French Indochina).
Vào năm 1936, khi nội quy của Hội thánh được tu chính lần đầu tiên, danh hiệu
được thay đổi là Hội Tin Lành Việt Nam Ðông Pháp. Sau đệ nhị thế chiến, danh từ
Ðông Pháp được bỏ đi. Vào năm 1950, theo quyết nghị của Hội Ðồng Tổng Liên,
danh xưng được đổi lại là Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Cũng nên chú ý rằng ngay
từ đầu, các tín hữu Việt Nam với tinh thần tự lập rất cao, thay vì dùng tên
chung là Hội Phúc Âm Liên Hiệp như các quốc gia khác, đã dùng danh xưng là Hội
Thánh Tin Lành (Evangelical Church).
Hội đồng lần thứ 4 nhóm tại Tourane năm 1927 |
Ban Chấp hành Truyền giáo Việt Mỹ năm 1927 |
Bắt đầu từ năm
1924, mỗi năm đều có Hội đồng tại Tourane để khuyến khích, giúp đỡ sự tăng
trưởng thuộc linh của các tín đồ và tôi tớ Chúa người Việt Nam. Năm 1927, Hội
đồng cũng nhóm họp ở Tourane từ ngày 5 đến ngày 13 tháng 3 với lớp mãn khoá đầu
tiên của Trường Kinh Thánh Tourane (Ðà Nẵng). Hội đồng này đã quyết định kết
hợp các Hội thánh ở miền Bắc, Trung, Nam và Cam-bô-chia như trên. Có 50 đại
biểu, trong đó có 4 chấp sự, đại diện cho 7 Hội thánh tự trị tự lập và 60 Hội
thánh chi nhánh. Các đại biểu bàn luận việc soạn thảo nội qui, nâng cao cương
vị của Giáo hội, tìm cách để chính quyền thừa nhận. Cùng với 70 người tham dự
cả nam lẫn nữ, các đại biểu đã dâng một số tiền tổng cộng là 148 đồng 80 xu cho
các chi phí của Hội đồng. Hội đồng cũng quyết định kêu gọi các Hội thánh địa
phương dâng hiến 5.000 đồng để xây cất cư xá cho các sinh viên và các cơ sở
khác của Trường Kinh Thánh Tourane. Ban chấp hành lâm thời, nhiệm kỳ một năm,
gồm Mục sư Hoàng Trọng Thừa, Hội trưởng; Mục sư Trần Dỉnh, Phó Hội trưởng, Mục
sư Dương Nhữ Tiếp, Thơ ký; Ông Trần Thành Long, Thủ quỷ; và Mục sư Lê Văn Long,
hội viên. Hội đồng cũng đề cử một ban để hoạt động chung với Ban truyền giáo của
Giáo hội C&MA, ban truyền giáo này gồm có các Giáo sĩ J. D. Olsen, E. F.
Irwin, W. C. Cadman, D. I. Jeffrey và I. R. Stebbins (thân phụ của Giáo sĩ
Thomas Stebbins, Tôn Thất Bình).
Năm 1928, Hội
đồng tái nhóm, chấp thuận một nội qui đầu tiên của Giáo hội với 37 chương và
156 phần. Trong đó Hội dồng chấp thuận nguyên tắc bốn giáo lý (doctrines) biểu
hiệu bởi bốn dấu hiệu: Thập tự giá, Chim bồ câu, Bình nước và Mão triều thiên
vẫn còn dùng cho đến ngày nay.
III. Sự bắt bớ đạo Tin
Lành.
Ðiều quan ngại nhất
của Ban Chấp Hành là việc giao tiếp của Hội Tin Lành Ðông Pháp thời ấy với
Triều Ðình Việt Nam và chính quyền người Pháp. Nhiều cản trở trong hoạt động
của các giáo sĩ Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (C&MA) và sự cấm chỉ
giảng đạo trong thập niên 1920 của Triều Ðình Việt Nam đã được vua Bảo Ðại tiếp
tục theo đuổi. Vào ngày 26 tháng giêng năm 1928, Hội Ðồng Cơ Mật của nhà vua đã
ra chỉ dụ cho các quan địa phương như sau:
"Theo phần
thứ 13 của hòa ước năm 1884, chỉ có Giáo Hội Công Giáo mới có quyền giảng đạo ở
Việt Nam mà thôi. Các giám mục, linh mục, giáo chức thuộc Giáo Hội Công Giáo La
Mã là những người duy nhất được giảng dạy. Chúng tôi được biết gần đây có một
tôn giáo mới[1], cũng như
đạo Cao Ðài ở miền Nam. Khi những tôn giáo này bành trướng thêm lên, sẽ có
nhiều người lợi dụng, tạo các khó khăn trong đất nước và nhiều người có thể bị
lường gạt như trường hợp của Võ Trụ và Trần Cao Vân trong năm qua[2].
Những người này lợi dụng danh nghĩa tôn giáo nhưng sự thật họ chỉ xúi giục dân
chúng nổi dậy. Biết bao dân lành đã chịu khổ vì họ! Vì vậy từ nay tôn giáo mới và đạo Cao Ðài phải bị cấm truyền
giảng tại địa phương hay lưu động ở Việt Nam. Nếu ai bất tuân chỉ dụ này, phải
trừng phạt người ấy theo như luật định.
Quan Khâm sứ đã
đồng ý về vấn đề này. Hội Ðồng Cơ Mật truyền chỉ dụ để quý vị rỏ và thi hành.
Huế, ngày thứ
tư, tháng thứ nhất, năm thứ ba của Hoàng đế Bảo Ðại. Ấn tín của Hội Ðồng Cơ
Mật."
Ông Bà Giáo sĩ Wm. C. Cadman, hình chụp vào năm 1929 trong Hội đồng các Giáo sĩ Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp |
Sau đó hai
tháng, vào tháng ba năm 1928, quan toàn quyền miền bắc gởi cho Giáo sĩ Cadman
thông tư như sau: "Tôi được biết Hội Truyền Bá Phúc Âm Liên Hiệp bổ nhiệm
ông trong chức vụ truyền giáo ở nhiều thị trấn miền Bắc và nhất là ở Nam Ðịnh.
Trái với tinh thần hòa ước năm 1874 và năm 1884 giữa chánh phủ Pháp và Hoàng Ðế
nước Việt Nam, tôi có nhiệm vụ khuyên ông nên sớm chấm dứt sự giảng đạo của
ông."
Tuy nhiên những
mục sư ở các thành phố miền Bắc không gặp trở ngại vì Hội Ðồng Cơ Mật đã nhượng
quyền ở miền Bắc trong nhiều năm và hoạt động truyền giáo Tin Lành ở đây lúc
này không được mạnh mẽ lắm. Kế hoạch bắt giữ Mục sư Lê Văn Thái ở Hà Nội khi
ông đến làng Gia Thượng, tỉnh Bắc Ninh đã thất bại vì ông Lý trưởng được chỉ
thị này là một người mới tin Chúa cho nên ông chỉ cho lính ngăn chận buổi nhóm
và trục xuất Mục sư Thái khỏi làng. Dầu vậy Mục sư vẫn trở lại những tuần sau
để truyền giảng. Việc chánh quyền địa phương miễn cưỡng ra lệnh cấm dân chúng
tham dự chỉ làm cho nhiều người tò mò đến càng đông hơn. Vào một ngày Chúa nhật
nọ, khi các tín đồ đang nhóm thờ phượng
thì một viên chức người Pháp dẫn quân lính và các dân làng võ trang bao vây
giáo đường. Sau khi giảng dạy xong, Mục sư Thái và Giáo sĩ Cadman ra chào vị sĩ
quan người Pháp, có lẽ ông này đổi ý nên nói rằng ông muốn chắc chắn rằng chỉ
có tín đồ tham dự buổi thờ phượng mà thôi và ông ra lệnh cho các dân làng không
phải là tín đồ kể cả các người võ trang giải tán.
Ông bà Mục sư Phan Ðình Liệu |
Ở miền Trung,
không những chỉ dụ trên được gởi đến các viên chức địa phương, mà còn được công
bố và dán ở các nơi công cộng, chợ búa, các nhà thờ, giảng đường. Ở Nha Trang
chẳng hạn, viên Tổng đốc đã ra một chiếu chỉ tương tợ như trên. Mục sư Phan
Ðình Liệu, đã bị bắt tại Quảng Nam vào năm 1925, lại bị bắt lần thứ hai bởi vị
chỉ huy quân sự người Pháp và giải đến quan Toàn quyền. Ông này thả Mục sư Liệu
ra và cho ông trở về Nha Trang. Ông bảo đảm với Mục sư Liệu rằng "người
Pháp sẽ không bắt bớ đạo Tin Lành". Tuy nhiên Mục sư Liệu đã bị vào tù lần
nữa vào mùa hè năm 1928 vì đã cãi lịnh không chịu gỡ bảng hiệu Hội Tin Lành
Việt Nam trước giảng đường ở Nha Trang. Khi ông ra Phan Rang để giảng, ông bị
bắt giải đến Quan Toàn Quyền và được khuyên nên vô trong Nam để có thể giảng
đạo tự do hơn. Trong buổi hiệp nguyện ở Nha Trang Thành (tỉnh Khánh Hòa), Mục
sư Liệu lại bị bắt lần thứ tư, sáu tín đồ cũng bị đánh đập và lưu giữ. Họ được
thả ra sau khi Mục sư Liệu chấp nhận tất cả trách nhiệm của buổi nhóm. Sau khi
giam giữ ông 2 tuần mà không xét xử, quan địa phương ra lệnh trục xuất ông ra
Quảng Nam. Sau khi ở Quảng Nam một thời gian ngắn, Mục sư Liệu đi Mỹ Tho để dự
Hội Ðồng Tổng Liên. Ông không dự được vì khi đến Nha Trang, ông bị bắt vì đã
rao giảng Tin Lành, ông bị kết án 6 tháng tù khổ sai. Mục sư Liệu dùng thời gian
này để dịch các tài liệu Cơ đốc từ tiếng Tàu và ông đã giúp được 2 người lính
và 12 tội nhân trở về cùng Chúa. Ông vào Nam để đi đây đi đó giảng Tin Lành cho
đến năm 1935, ông trở lại miền Trung khi việc cấm chỉ này không còn nữa.
Ở Quảng Ngãi,
hai nhà truyền giáo trẻ tuổi là Mục sư Ông Văn Huyên và Ðặng Ngọc Cầu đã bị bắt
ở đảo Lý Sơn giải về quê ở Quảng Nam. Các người này bị kết án 3 tháng tù khổ
sai vì đã cãi lệnh Triều đình. Họ được phóng thích sau khi đã đóng nộp tiền
phạt. Khi các nhà truyền giáo và các giáo sĩ lưu động bị bắt giam, tín đồ
"bị hăm dọa và được lệnh đốt Kinh Thánh". Giáo sĩ Travis ở miền nam
Trung phần tường trình rằng nhiều người giấu Kinh Thánh, nhiều người khác yếu
đuối hơn đã đốt quyển sách này, một số khác nữa viện lẽ ấy bỏ quyển sách mà họ
đã tình cờ mua". Ở miền trung Trung phần, chính quyền vào nhà dân chúng
tịch thâu Kinh Thánh, bắt tín đồ phải ký giấy bỏ đạo. Cùng với quý vị mục sư,
số tín đồ bị bắt không phải là ít. Ở Tam kỳ, tỉnh Quảng Nam, dầu rằng những
người theo đạo bị bắt bớ rất nhiều, ông Lý trưởng đã theo đạo và đã tường trình
tốt đẹp về Tin Lành mỗi khi ông được triệu hỏi bởi các quan trên, vì thế đã
giúp cho các con cái tôi tớ Chúa tránh nhiều sự bắt bớ.
Chỉ dụ của Hội
Ðồng Cơ Mật của nhà vua ngày 26 tháng giêng năm 1928 đã gây nhiều khó khăn cho
cộng đồng Tin Lành ở Việt Nam và đã tạo tiếng vang ở Pháp. Mục sư Calas của Hội
thánh Tin Lành Pháp ở Hà Nội và là đại diện của Hội Kinh Thánh Ðông Nam Á đã
mạnh dạn phản kháng với chính quyền rằng ông không được thông báo kịp thời về
những việc bắt bớ tín đồ, việc cản trở truyền giáo và những sự việc đáng tiếc
khác vì không có sự liên lạc giửa các nhà thờ nhỏ ở các địa phương hẻo lánh với
ông. Trên thực tế, hầu như không có hợp tác gì giữa hai nhóm Tin Lành người
Việt Nam và người Pháp.
Khi Mục sư Lê
Văn Thái đến đề lao Khánh Hòa thăm Mục sư Phan Ðình Liệu và tặng Mục sư Liệu
chiếc lò dầu lửa (rề-sô), bà Giáo sĩ Cadman đứng bên kia đường chụp được tấm
hình. Sau đó, bà viết bài tường thuật gởi cho một nghị sĩ ở Quốc hội Pháp và
cho đăng hình lên các báo ở ngoại quốc kèm theo tấm hình làm bằng cớ rằng Tin
Lành bị bắt bớ, mục sư bị tù đày tại Việt Nam... Nhân dịp Pierre Pasquier, Quan
Thống đốc Toàn quyền Pháp mới nhậm chức
vào tháng giêng 1929, các vị lãnh đạo Tin Lành Pháp cũng đã lưu ý ông về vấn đề
này. Cùng lúc đó, Hiệp Hội Tin Lành Pháp đã tạo áp lực với Quốc Hội đòi hỏi sự
tự do tín ngưỡng ở vùng Ðông nam Á trong lúc nước Pháp đang có khuynh hướng
chính trị không muốn chính quyền can thiệp vào tôn giáo. Mãi đến tháng 12 năm
1929, quan nhiếp chánh của Hoàng đế và
Khâm sứ Jabouille đã cùng ký một sắc lệnh rằng:
·
Các
mục sư Tin Lành Pháp không bị hạn chế trong việc thờ phượng và truyền giảng Tin
Lành[3].
·
Một
giấy phép sơ khởi sẽ được cấp cho các hội truyền giáo ngoại quốc thuộc mọi tín
ngưỡng, và các hàng giáo phẩm ngoại quốc thuộc mọi tín ngưỡng.
·
Ðơn
xin phép sẽ do các đương sự đệ nạp cho Tòa Khâm Sứ và được xét tại cuộc họp của
Viện Cơ Mật để đệ trình lên Hoàng Thượng duyệt xét, hay quan Phụ Chánh duyệt
xét, nếu Hoàng Thượng còn vị thành niên. Quyết định sẽ được trao cho Tòa Khâm
Sứ ban hành.
Trên thực tế,
sắc lệnh này cho phép các nhà truyền giáo và người phụ tá địa phương hoạt động
ở khu vực mình mà thôi nếu họ được cấp giấy phép. Giấy phép này không phải là
dễ xin, nhất là khi đổi đến nơi khác. Một thí dụ điển hình là khi một truyền
đạo đến Quảng Ngãi, ông được cấp giấy phép giảng dạy ở đó. Tuy nhiên sau gần
một năm, ông phải về trường học tiếp, người thay thế ông là một Mục sư thực thụ
đã được tấn phong không được phép giảng dạy, viện lý lẽ là có hoạt động chính
trị trong vùng. Ông chỉ được cho phép nhóm họp khi có giáo sĩ ngoại quốc đến mà
thôi. Vì không có giáo sĩ ở Quảng Ngãi, giáo sĩ ở Tourane đã phải phụ trách
nhiều Hội thánh chung quanh, ông không thể nào di chuyển 120 cây số để đến
Quảng Ngãi mỗi Chúa Nhật được. Khi không có Giáo sĩ hiện diện, cảnh sát được
phái đến ở trước nhà thờ để được chắc chắn rằng không có sinh hoạt thờ phượng ở
đó. Tình trạng được thay đổi khi có một nhân viên ngoại giao cao cấp của Pháp
qua đời, gia đình muốn được an táng theo nghi lễ Tin Lành vì ông là người có
đạo nhưng không có mục sư trong vùng nên quan Tổng đốc phải đề nghị cho phép
một mục sư đến lo việc Hội thánh. Từ đó về sau, chính quyền Việt Pháp địa
phương mới dễ dãi cho.
Vào năm 1943,
khi Mục sư Nguyễn Xuân Diệm ở Thăng Bình tỉnh Quảng Nam được sự chấp thuận của
quan Tổng đốc, được Quan Tổng Ðốc Toàn quyền phê chuẩn thuận, lại phải qua sự
điều tra của Bộ Nghi Lễ rồi mới được sự chấp thuận của Hoàng Ðế. Sau đó các quan
địa phương được lần lượt thông báo xuống từ Thủ Tướng, đến thượng thư Bộ Nghi lễ, đến quan Tổng Ðốc, rồi mới tới
các quận trưởng quận Thăng Bình và Tam Kỳ với chỉ thị phải bí mật theo dõi mục
sư và rút giấy phép lại nếu ông mục sư vi phạm các điều luật. Vào năm 1944, Mục
sư Diệm xin phép mở nhà thờ chi nhánh ở Tiên Quả và Thượng Thanh quận Tam Kỳ,
lần này viên Khâm sứ miền Trung thay mặt chính phủ ký giấy chấp thuận, chuyển
xuống Tổng đốc Quảng Nam và Quảng Ngãi để tường với chỉ thị bí mật theo dõi và
báo cáo các vi phạm luật lệ. Hệ thống quan liêu để xin giấy phép này được tiếp
tục áp dụng cho đến Cách mạng tháng tám năm 1945.
Trên lãnh vực quốc gia, Ban
chấp hành Hội Tin Lành Việt Nam đã cố gắng đòi hỏi để được sự chấp nhận của
chính phủ như là một giáo hội ngang hàng với Công Giáo nhưng đã thất bại ít
nhất 3 lần. Năm 1942, để tỏ thái độ thiện cảm với Hội Thánh Việt Nam sau khi
miền nam bị Nhật chiếm, Quan Toàn quyền Jean Decoux gởi một bức thơ cho Muc sư
Hội trưởng Lê Ðình Tươi nhìn nhận thành phần Ban Quản Trị Tài Sản Hội Thánh Tin
Lành Việt Nam. Hội Tin Lành Việt Nam chưa từng được chính quyền Việt hay Pháp
thừa nhận như đã thừa nhận Giáo Hội Công Giáo từ năm 1884, tuy vậy những sự bắt
bớ đạo Tin Lành không chi so sánh với sự bắt bớ của Công Giáo dưới thời vua
Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức. Những sự thử thách này đã khiến cho cả đạo Công
Giáo lẫn Tin Lành thêm vững đức tin, khiến nhiều người biết đến và giúp cho sự
bành trướng của tôn giáo thêm mạnh mẽ.
IV. Các khó khăn khác và sự
tự trị, tự lập.
Rút tỉa kinh
nghiệm ở các nước khác, Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp đã cố gây dựng Hội
Thánh Việt Nam để có thể đạt đến tình trạng tự trị tự lập càng sớm càng tốt. Ða
số tín đồ Việt Nam là những người bình dân, một số nhỏ là công chức. Năm 1928,
chỉ có 10 trong số 80 Hội thánh tự trị tự lập, số này tăng lên gấp đôi vào năm
1930 và gấp bốn lần vào năm 1932. Vào Thế Chiến Thứ Hai, 75% hội thánh đạt đến
tự trị tự lập, các mục sư của các hội thánh còn lại được tín đồ trợ cấp rất ít,
phải cần sự giúp đở của Hội Truyền Giáo. Vào năm 1942 khi mật vụ của Nhật bắt
giam các giáo sĩ ở Mỹ Tho, tất cả các Hội thánh đều tự túc với chương trình
tương trợ giữa các hội thánh địa phương và các Ðịa hạt trong giai đoạn nầy.
Trong Ðệ Nhị Thế
Chiến, tình hình tài chánh suy giảm, các viên chức Hội Truyền Giáo cho biết là
Hội không có khả năng giúp đỡ các hội thánh đang thiếu hụt được, họ khuyên quý
mục sư hãy nhờ cậy Chúa trong đức tin, nếu họ muốn, họ có thể đóng cửa nhà thờ
và trở về nghề cũ. Tuy nhiên đại diện của Hội Truyền Giáo miền Nam tường trình
rằng không một hội thánh nào phải đóng cửa vì có một ngân quỷ trong đó các hội
thánh tự lập đã giúp các hội thánh khác đang gặp khó khăn.
Ở miền Bắc, vào
năm 1942, có khoảng một ngàn tín đồ đã chịu phép báp-têm, 28 mục sư và truyền
đạo với 27 nhà thờ và 30 chi nhánh. Trong đó chỉ có 4 nhà thờ tự lập. Giáo hội
đã phải đóng cửa 11 nhà thờ và có thể phải đóng cửa trên 80 % các nơi nhóm họp
vì có nhiều người tị nạn từ miền nam Trung quốc khiến ngân quỷ giáo hội bị
thiếu hụt. Vào tháng hai năm 1942, Mục sư Lê Văn Thái, Chủ nhiệm Bắc hạt, được
mời tham dự kỳ Hội đồng Ðịa hạt miền Nam tại Cần Thơ thay thế cho Mục sư Hội
trưởng Lê Ðình Tươi bị bệnh. Ông đã từ chối lời mời vì tình trạng khẩn trương ở
đây. Nhưng trong giấc chiêm bao, ông được khải thị về sự yêu thương và tương
trợ của các con cái Chúa, ông liền nhận lời. Vào Nam, ông được các tín hữu, tôi
tớ Chúa giúp đỡ từ chiếc áo choàng, đôi bông tai, đến đôi giày, đồng hồ, viết
máy và tiền mặt... y như điều ông thấy trước trong giấc chiêm bao. Trên đường
về Bắc, ông có ghé dự Hội đồng Ðịa hạt miền Trung và Trường Kinh Thánh Tourane
(Ðà Nẵng). Nơi nào ông đến, ông cũng được mọi người hết lòng chia xẻ và giúp
đỡ. Khi trở về Hà Nội, Mục sư Thái mang bốn va-ly chứa đầy tặng vật. Hội Thánh
Hà Nội liền phát động chiến dịch mua lại các tặng vật để gởi trả cho người
dâng. Việc nầy đã được tín hữu ở đây và các vùng phụ cận hưởng ứng nhiệt liệt.
Các tín hữu tranh nhau mua những món đồ tầm thường với giá rất cao, mong sao
hành động của mình xứng với lòng hy sinh tốt đẹp của các tín hữu miền Trung và
Nam. Nhờ việc bán đấu giá lạ lùng nầy mà Bắc hạt có đủ tiền để trang trải những
nhu cầu cấp bách lúc đó. Vì thế những tín đồ miền Trung và Nam đã dâng hiến đều
được các kỷ vật gởi trả lại cho mình. Một Giáo sĩ đã viết lại sự tương trợ của
các con cái Chúa trong thời gian này như sau: "Dầu rằng các tín đồ rất
nghèo và rất muốn lưu giữ các kỷ vật của mình, vì thế những sự dâng hiến và
giúp đỡ này rất đáng phâm phục. Giống như những tín đồ ở Ma-xê-đoan, họ đã tự ý
quyên tiền theo sức mình, hoặc cũng quá sức nữa... (II
Cô-rinh-tô 8:3)"
Mục sư Lê Văn Thái |
Ở miền Trung, Hội thánh đã chịu ảnh hưởng nặng nề nhất
trong thời kỳ chiến tranh: có một số nhà thờ phải đóng cửa và nhiều mục sư phải
trở lại nghề cũ để lo sinh kế cho gia đình. Nhiều mục sư kiên trì trong chức vụ
phải mắc nợ lâu dài và gia đình lâm vào cảnh đói kém.
Trong cuộc thế
chiến thứ hai này, các giáo sĩ được lệnh di tản về nước hay qua Phi-luật-tân.
Tuy nhiên trong số 74 vị ở vùng Ðông Nam Á, có 68 người liều mình ở lại, họ
được tòa đại sứ Thụy sĩ giúp đỡ. Nhiều giáo sĩ lợi dụng thời gian bị bắt để
soạn các bộ sách rất có giá trị cho chúng ta như quyển Kinh Thánh Tự Ðiển của
Giáo sĩ Cadman, quyển Thần Ðạo Học và những sách khác được Giáo sĩ Olsen nhuận
chánh. Sau khi lật đổ chính quyền Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bắt
đầu đối xử tàn tệ với các nhà truyền giáo. Giáo sĩ Franklin Grobb là người duy
nhất đã qua đời trong lúc bị giam giữ vì họ không cho phép vợ ông mang ông đến
bệnh viện phía bên kia đường đối diện trại giam để trị chứng viêm ruột dư và
màn bụng cấp tính. Sau khi người Nhật đầu hàng, tất cả các Giáo sĩ đều được trở
về nước ngoại trừ ông bà E. F. Irwin, ông bà W. C. Cadman và ông D. I. Jeffrey.
Ðến tháng 11 năm 1945, chỉ có gia đình Giáo sĩ Cadman ở lại. Sau khi bà về với
Chúa vào tháng 4 năm 1946, Giáo sĩ Cadman là giáo sĩ độc nhất tại Việt Nam
trong 10 tháng. Ông nói: "Các anh em trong Chúa ở đây đang gặp hiểm nguy,
chúng ta không thể bỏ họ đơn cô, chúng tôi quyết định ở lại với họ".
Trong thời gian
nạn đói năm 1944-45, có gần 2 triệu đồng bào, đa số ở miền Bắc, phải chết vì
không có thực phẩm. Tuy nhiên, không có một tín đồ nào bị chết đói mặc dầu họ
rất nghèo và hết lòng cung ứng cho mục sư của họ. Mục sư Thái cho biết trong
thời gian này sự dâng hiến (cộng chung với sự giúp đỡ của các anh em miền Trung
và miền Nam) cho Ðịa hạt miền Bắc đã tăng lên gấp 4 lần.
Vì chủ trương
không tham gia chính trị của Giáo Hội, nhiều tín đồ đã bị bắt bớ vì sự nghi kỵ
của hai bên nhất là trong thời gian chiến tranh. Vào năm 1948, số giáo sĩ ở
miền Bắc tăng lên đến 5 người, số nhà giảng, buổi thờ phượng và số người chịu
phép báp-têm đều gia tăng. Các hội thánh miền Trung gần trận tuyến phải đóng
cửa, mục sư và tín đồ di tản. Các hội thánh còn lại vẫn trung tín hoạt động. Số
tín đồ được gia tăng như ở Ðà Nẵng, có 67 người gia nhập Hội thánh trong năm
1950. Ở trong Nam, có gần 30 nhà thờ bị đóng cửa, nhiều nơi bị san bằng hay bị
chiếm đóng. Nhiều mục sư vì thế phải bị thiếu thốn, nợ nần có khi phải tìm việc
khác mưu sinh.
V. Giai đoạn phục hồi và tăng
trưởng.
Sau trận chiến ở
Ðiện Biên Phủ và việc ký hiệp định Genève, Việt Nam bị chia ra làm hai miền.
Hiến pháp năm 1960 của miền Bắc khẳng định những nhân quyền căn bản của nhân
dân như trong hiến pháp năm 1946: "Nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa được quyền tự do tín ngưỡng; mọi người đều có quyền theo đạo hoặc không
theo đạo". Hiến pháp của miền Nam thừa nhận mọi người đều có quyền tự do
tín ngưỡng, hành đạo và theo đạo miễn là sự tự do này không đi ngược lại với
luân thường đạo đức.
Giáo hội miền
Bắc được đổi tên là "Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Miền Bắc" gồm vài
ngàn tín đồ với hai chục hội thánh, 13 mục sư và truyền đạo. Giáo hội miền Nam
vẩn giữ danh hiệu Hội Thánh Tin Lành Việt Nam vì trên 90 phần trăm tín hữu ở
trong Nam. Vào năm 1962, Ðịa hạt miền Trung được chia ra làm Bắc Trung phần trụ
sở ở Ðà Nẵng và Nam Trung phần trụ sở ở Nha Trang. Ðến năm 1969 Ðịa hạt miền
Nam được chia ra làm Ðông Nam phần với văn phòng ở Sài Gòn và Tây Nam phần ở
Vĩnh Long. Năm 1960, Ðịa hạt Thượng du được thành lập để cung ứng nhu cầu đặc
biệt cho đồng bào thiểu số.
Trong kỳ Hội
Ðồng Tổng Liên năm 1955, mặc dù có một nhóm người tố cáo muốn lật đổ Mục sư Hội
trưởng Lê Văn Thái, Hội Ðồng cũng đã quyết định những việc quan trọng sau đây:
a)
Hội
Ðồng chấp thuận liên hợp với những tổ chức truyền giáo đồng chung niềm tin để
đẩy mạnh việc truyền giảng trong nước. Cơ quan đầu tiên được tiếp xúc là Hội
Cứu Thế Quân (the Salvation Army), sau đó là những cơ quan truyền giáo như: The
Navigator (1955), The Overseas Crusades (1956), Hội dịch Kinh Thánh Wycliffe
(1957), Cơ Ðốc Truyền Giáo Hội hay The Worldwide Evangelization Crusade (1957),
Hội Truyền Giáo Mennonite (1957), Giáo Hội Báp-Tít Nam Phương (1959), Hội Ái
Hữu Sinh Viên Cơ Ðốc (1959), Giáo Hội Ðấng Christ (1960), The Scripture Union
(1962) và các cơ quan nhỏ khác.
b)
Lần
đầu tiên Hội Ðồng cứu xét việc bổ nhậm phụ nữ để giảng dạy[4].
c)
Gởi
sinh viên ra hải ngoại để được huấn luyện về thần học hay các ngành chuyên môn
khác.
d)
Hội
Ðồng cũng quyết định đẩy mạnh công tác xã hội đã được đề ra từ năm 1932. Với sự
giúp đỡ của nhiều cơ quan, Giáo Hội cũng đã trợ cấp cho nhiều hội thánh xây cất
lại. Theo thống kê năm 1971, tổng cộng Giáo Hội có 6 cô nhi viện và một nhà
dành cho quả phụ.
e)
Thành
lập Ðoàn Tuyên úy với Mục sư Tuyên úy Ðoàn Mười là vị sĩ quan đầu tiên.
f)
Thành
lập trường học cho đồng bào thiểu số và sau này các Hội thánh lớn như Khánh
hội, Sài gòn cùng mở các trường trung học, trường Ánh Sáng là trường thành công
nhất ở Ðà Nẵng dùng cơ sở củ của Trường Kinh Thánh. Sau đó có trường dạy nghề
Tuyên Ðức[5].
Vào năm 1957,
Hội Ðồng cũng quyết định mở một bệnh viện Tin Lành ở Sàigòn. Dự án này không
thực hiện được. Tuy vậy Mục sư Phạm Xuân Tín, với sự giúp đỡ của Hội Mennonite,
đã mở một Chẩn Y Viện Tin Lành ở Nha Trang vào ngày 9 tháng 7 năm 1961. Sau đó
một Trại dưỡng bệnh và một Trường đào tạo y tá được thêm vào. Vào năm 1965,
Bệnh viện Tin Lành Pleiku được mở ra với sự tài trợ của Hội Mennonite. Cũng nên
biết rằng Trại cùi Tin Lành Ban-mê-thuột đã được thiết lập vào năm 1951, Chẩn Y
Viện Ðà Lạt đã hoạt động trước đó cũng được bành trướng vào năm 1954. Khi Giáo
sĩ Cadman về với Chúa vào ngày 7 tháng 12 năm 1948, ông dâng tất cả di sản của
ông cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam. Mục sư Lê Văn Thái phải vận động chính phủ
giảm miễn thuế trên món tiền này để xây cất Cô nhi viện Hòn Chồng, trên mảnh
đất 18 mẫu với sự trợ giúp của Hội Bảo Trợ Nhi Ðồng Quốc Tế. Cơ sở này được
khánh thành vào ngày 4 tháng 9 năm 1953 với các cô nhi con mục sư, truyền đạo
(27 em) và con tín hữu (11 em). Sau đó ông bắt đầu mỡ trường trung tiểu học
Bết-lê-hem và trường dạy nghề cũng trong khuôn viên của Cô nhi viện. Cũng nên
biết là Giáo sĩ Cadman là một trong những nhà truyền giáo tiên phong ở Việt
Nam, ông bà có một người con gái độc nhất qua đời lúc 6 tuổi được an táng ở
nghĩa trang thành phố Hà Nội vào năm 1922, bà về với Chúa và được an táng ở
nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi Saigòn (1946), còn ông thì được Tổng Liên Hội an táng
ở nghĩa trang thành phố Ðà Lạt (1948), phía dưới mộ bia của ông có đề "NGƯờI
TRUNG TÍN CHO ÐẾN CHẾT"
Mộ cụ Giáo sĩ Cadman tại nghĩa trang thành phố Ðà Lạt |
Sau 19 năm phục
vụ Giáo hội dưới chức vụ Hội trưởng, qua thời Nhật chiếm đóng, Giáo sĩ bị giam
cầm và sự tranh đấu dành độc lập tôn giáo đối với chính quyền miền Bắc và miền
Nam nhất là những năm đầu của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, Mục sư Lê Văn Thái từ
nhiệm vào năm 1960, mặc dù có nhiều đại biểu yêu cầu ông ở lại. Mục sư Ông Văn
Huyên cũng xin từ chức sau 30 năm làm Thư ký Giáo hội. Hội Ðồng bầu Mục sư Ðoàn
Văn Miêng vào chức vụ Hội trưởng với sự phụ tá của Mục sư Phạm Xuân Tín.
Mục sư Ðoàn Văn Miêng |
Ðể thích ứng cho
thời bình với khải thị bành trướng tầm hoạt động, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam
gia tăng các chương trình huấn luyện để đào tạo mục sư cũng như các người hầu
việc khác:
1.
Trường
Kinh Thánh Ðà Nẵng: Hội thánh Ðà Nẵng
mở lớp học Kinh Thánh tại tư thất các giáo sĩ mỗi ngày vào giờ nghỉ trưa bắt
đầu từ năm 1919. Vào năm 1921, Trường Kinh Thánh Ðà Nẵng được thành lập và nơi
nầy đã trở thành trung tâm đẩy mạnh việc truyền giáo đến mọi nẻo đường trong xứ
cũng như một phần lảnh thổ Cam-bô-chia và Lào. Số sinh viên bị giảm xuống thấp
nhất vào niên khóa 1953-1954 với 18 người vì có lệnh động viên. Sau đó nhiều
năm, số sinh viên dần dần gia tăng trở lại.
2.
Thánh
Kinh Thần Học Viện Nha Trang: Ðược
khánh thành vào tháng 9 năm 1960, trong năm đầu tiên có 85 sinh viên nội trú
với 55 truyền đạo. Năm 1961-1962, có đến 110 sinh viên và 55 truyền đạo.
3.
Trường
Kinh Thánh Ðà-lạt và Ban-mê-thuột: Ðược
thành lập để lo cho việc truyền giáo cho đồng bào thiểu số. Vào giữa thập niên
1950, trường Kinh Thánh Pleiku được mở cho người Jarai, nhưng vì ít người tham
dự cho nên các sinh viên được chuyển xuống Ban-mê-thuột để học và nơi này được
dùng để huấn luyện cho các Chấp sự Hội thánh.
4.
Thánh
Kinh Tiểu Học Ðường: Thánh Kinh Tiểu Học Ðường (short term bible schools) đã có
từ trước nhưng mãi đến năm 1958 mới được thông dụng và tổ chức đều đặn.
Vào năm 1955,
Việt Nam có 3 trường Kinh Thánh, con số này tăng lên 6 trường vào năm 1958 ,
đến năm 1964, có tất cả 9 trường với tổng số sinh viên cao nhất là 214 vào năm
1962.
Năm 1951, Ðài
Viễn Ðông tại Ma-ni-la bắt đầu chương trình phát thanh Tin Lành bằng Việt ngữ,
sau đó chính phủ Việt Nam cũng cho phép phát thanh Tin Lành trên các đài địa
phương.
Chương trình
chứng đạo cá nhân cũng được đẩy mạnh, năm 1955, các chứng đạo viên đã tiếp xúc
được trên 93.000 người, có gần 5.000 người cầu nguyện tin Chúa trên toàn quốc.
Việc chứng đạo trong các trung tâm cải huấn Phan Rang, Phan Thiết, Chí Hòa, các
tỉnh miền Nam và đảo Côn Sơn cũng đã mang nhiều tội nhân trở lại cùng Chúa.
Năm 1959, Giáo
sĩ Sutherland thành lập Trung Tâm Thanh Niên Cơ Ðốc tại Sài-gòn, sau đó các
trung tâm ở Huế, Ðà Nẵng, Tuy Hòa, Nha Trang, Biên Hòa, Cần Thơ cũng được mở
ra. Thanh niên làm việc chung với các giáo sĩ, mục sư, rao giảng Tin Lành qua
việc dạy Anh ngữ, chiếu phim tôn giáo, hội họp, làm chứng... Nhiều mục sư đã
dùng thuyền để rao giảng dọc theo sông Cửu Long và các hệ thống sông ngòi miền
Nam.
Khi chính phủ
khởi xướng các Chương Trình Dinh Ðiền, nhiều gia đình tín đồ bị định cư cũng
lợi dụng cơ hội nầy để làm chứng đạo cho các người định cư khác. Hội thánh cũng
tổ chức các buổi truyền giảng tại các trung tâm tị nạn. Nhà in Tin Lành trong
lúc nầy cũng nổ lực in các văn phẩm Cơ đốc, truyền đạo đơn, các báo định kỳ như
Thánh Kinh Báo (Thánh Kinh Nguyệt San), Ðuốc Thiêng và Hừng Ðông (Rạng Ðông) đã
mang đến cho tín đồ mọi nơi thức ăn tinh thần nuôi dưởng đời sống thuộc linh.
Số người cầu
nguyện tin Chúa từ năm 1911 đến 1927 là 11.699 người, từ năm 1928 đến năm 1941
có 41.402 người, từ năm 1942 đến năm 1953 có 49.753 người, từ năm 1954 đến năm
1965 có 117.349 người, và từ năm 1966 đến năm 1970 có 69.385 người.
So với các quốc
gia khác ở vùng Ðông Nam Á, việc truyền giáo được bắt đầu vào năm 1813 ở Miến
Ðiện, năm 1898 tại Phi Luật Tân, năm 1828 tại Thái Lan. Nam Dương và Mã Lai là
hai quốc gia được biết đến Tin Lành từ thế kỷ thứ 17: Vào năm 1965, Việt Nam có
1.000.000 tín đồ Công giáo, 120.000 tín đồ Tin Lành (gồm tất cả các hệ phái),
trong khi đó ở Cam-bô-chia có 734 tín đồ, Lào có 5.000 người, Thái Lan có
44.000 người, Mã Lai có 104.000 người, Nam Dương có 6.800.000 người, Phi Luật
Tân có 1.243.000 người, và Miến Ðiện có 600.000 người.
VI.
Kết luận.
Sau nhiều năm vận động, Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp
đã được cho phép mỡ một văn phòng ở Tourane để lo cho việc giảng đạo cho các
nước thuộc địa Pháp vùng Ðông Nam Á vào năm 1911. Ðể thỏa mãn nhu cầu học hỏi
Kinh Thánh của những người khao khát lời Chúa, Trường Kinh Thánh Tourane được
thành lập vào năm 1921. Giáo hội cũng đã bầu ban chấp hành đầu tiên của Tổng
Liên Hội và lễ mãn khóa đầu tiên của trường Kinh Thánh Ðà Nẵng vào năm 1927. Năm
sau, nội quy đầu tiên được chấp thuận làm căn bản cho các Hội thánh địa phương
đến cấp trung ương. Các Hội thánh địa phương cố gắng hoạt động để tăng trưởng
và trở thành độc lập trong ba bước: tự lập, tự trị và tự bành trướng. Trong
khoản thời gian yên ổn tương đối từ năm 1927-1941, Giáo hội đã đạt được sự phát
triển nhanh chóng mọi mặt, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được tăng trưởng và càng
được tự trị với Hội Truyền Giáo. Giáo
hội cũng gởi giáo sĩ lên miền thượng du giảng đạo song song với các giáo sĩ
C&MA.
Vào năm 1938, Mục sư Tấn sĩ Tống Thượng Tiết đến viếng Việt Nam và đã gây sự phục hưng
trong nước, việc chứng đạo cá nhân được đẩy mạnh cho đến Thế Chiến Thứ Hai. Sự
bành trướng của Giáo hội mạnh nhất ở miền Nam. Ở miền Trung dưới quyền của
triều đình Việt Nam, hội thánh phát triển trung bình, nhiều tín đồ bị khó khăn
và bắt bớ, ngoại trừ vùng tỉnh Quảng Nam đã phát triển mạnh mẽ, cung ứng nhiều
mục sư cho toàn quốc. Ở miền Bắc, vì truyền thống gia đình và xã hội, với cùng
một số nhân viên và ngân khoản, kết quả ở đây khiêm nhượng nhất.
Trong lúc thế giới được hưởng hòa bình sau khi Nhật và
Ðức đầu hàng, Việt Nam lại sa vào chiến tranh dành độc lập và sau đó là nội
chiến tàn khốc. Nhiều mục sư và hàng trăm tín đồ bị giết, nhiều nhà thờ bị
thiêu hủy và hàng ngàn tín đồ khác bị giam cầm. Sự tổn thất do chiến tranh gây
ra đã làm nền tảng của giáo hội bị rung chuyển. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của
Mục sư Hội trưởng Lê Văn Thái, Giáo Hội đã dần dần phục hồi. Số tín đồ dần dần
gia tăng bằng số trước Thế Chiến vào năm 1952. Hiệp định Genève năm 1954 trên
nguyên tắc chấm dứt chiến tranh nhưng trên thực tế đã đưa đất nước đến những
khủng hoảng chính trị, quân sự và kinh tế cho đến ngày nay.
Hương Mai
[1] Ðạo Tin Lành.
[2] Âm mưu lật đổ chính quyền
và đuổi người Pháp của cựu hoàng Duy Tân và Trần Cao Vân đã bị thất bại, những
người này trốn vào một ngôi chùa. Họ bị cho là có liên hệ với một phong trào
tôn giáo thịnh hành lúc đó.
[3] Các mục sư Tin Lành Pháp
không bị khó khăn hay hạn chế trong việc truyền giảng hay thờ phượng từ trước
đến nay.
[4] Nhưng 2 năm sau Hội Ðồng
cho rằng việc này không thực tiển và chỉ cho phép quý bà quý cô hoạt động như
đại biểu Hội Ðồng cũng như giữ các chức vụ y tế giáo dục khác.
[5] Cũng nên biết Hội Truyền
Giáo Phúc Âm Liên Hiệp không chủ trương tham gia vào công tác giáo dục ở những
nơi đã có sẳn trường học địa phương.