Lịch
sử Công Giáo La-mã tại Việt Nam
Không có tài
liệu cho biết đạo Công Giáo (còn được gọi là đạo Gia-tô, đạo Thiên Chúa) đã du
nhập Việt Nam như thế nào. Theo truyền thuyết thì vào thế kỷ thứ hai, thứ ba...
nhiều người Tây phương đến viếng Việt Nam trong số đó có các thương gia, các
linh mục Thiên Chúa Giáo. Những hoạt động của các nhà truyền giáo nầy không
được ghi chép và không có bằng chứng nào cho biết là đã có người theo đạo lúc
ấy mãi cho đến thế kỷ thứ 16.
Theo lịch sử
chánh thức của triều đình Việt Nam (Khâm Ðịnh Việt Sử) thì từ năm Nguyên-hòa
nguyên niên đời vua Trang-tông nhà Lê (1533) có chiếu chỉ cấm đạo Công Giáo ở
Việt Nam. Chiếu chỉ nầy đã đề cập đến một người Tây phương tên I-Hi-Khu đã rao
giảng đạo Thiên Chúa ở huyện Giao Thủy và Nam Chân tỉnh Nam Sơn (nay là Nam
Ðịnh).
Ðây là một giai
đoạn xáo trộn về chính trị với sự phân tranh lãnh thổ: Nhà Mạc ở miền bắc và
Nhà Lê ở miền nam (1527-1592); đất nước được thống nhất trên danh nghĩa dưới
Triều Lê nhưng trên thực tế đã chia ra làm Ðường Ngoài (miền bắc) thuộc chúa
Trịnh và Ðường Trong (miền nam) thuộc chúa Nguyễn (1592-1788).
Sử liệu không
nói rõ là I-Hi-Khu đã bị trục xuất ngay lúc đó hay vẫn còn ở lại và tiếp tục
chức vụ truyền giáo. Vào năm 1583, Cha Diego d'Oropesa hướng dẩn một phái đoàn
gồm 8 linh mục đến viếng Việt Nam theo lời mời của vua Mạc Mậu Hợp. Phái đoàn
đi từ Manila đến Quảng Yên và dùng đường thủy để đến thủ đô Thăng Long (Hà
Nội). Dọc đường, tàu của họ bị một trận cuồng phong làm lạc hướng nên không vào
hải phận Việt Nam được. Năm sau, linh mục Bartholomeo Ruiz, một thành viên của
phái đoàn trên, đã trở lại Việt Nam và được quốc vương tiếp đón nồng hậu. Ông
được nhà vua cho phép ở lại để truyền giáo.
Cha Ruiz và một
số các linh mục Công Giáo, đa số là người Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha, đã hoạt
động tích cực đem những nhân vật cao cấp của chính quyền, trong đó có Công chúa
Regent Mai Hoa, trở lại cùng Chúa. Dầu vậy, ảnh hưởng của họ không được sâu
rộng lắm trong quần chúng dân Việt. Nguyễn Hữu Trọng, trong luận án tiến sĩ của
ông dưới tựa đề "Nguồn gốc của
hàng giáo phẩm Việt Nam" (Les Origines Du Clergé Vietnamien), đã viết như
sau: "Nếu chúng ta xem xét những thành quả của việc truyền giáo trong giai
đoạn tiên khởi nầy, chúng ta phải nhìn nhận rằng nó đã thành tựu một cách khiêm
nhường. Có vài người chịu phép rửa tội (báp-têm), chưa đủ để tạo dựng một cộng
đồng Cơ Ðốc có thể gây dựng một Hội thánh tương lai".
Mãi cho đến năm
1624, khi một giáo sĩ người Pháp, một học giả tài ba lỗi lạc, là Cha Ðắc Lộ hay
Alexandre de Rhodes đến Việt Nam, việc truyền giáo mới chuyển qua khúc quanh
quan trọng. Ông hoạt động cả miền bắc lẫn miền nam (Ðường Ngoài và Ðường Trong)
trong 22 năm. Ông thành thạo ngôn ngữ, lịch sử và địa lý Việt Nam, nhất là đã
hoàn tất việc chuyển đổi chữ viết Việt Nam bằng cách dùng mẫu tự La-tinh. Với
vài thay đổi và tu chỉnh sau nầy, chữ viết do ông soạn thảo đã thay thế chữ nho
để trở thành quốc ngữ vào cuối thập niên 1910.
Linh mục Ðắc Lộ
trở về Ba-lê vào năm 1649. Ông thành lập Hội Thừa Sai (Societé des Missions
Etrangères) để khuyến khích các nhà truyền giáo người Pháp đến vùng Viễn Ðông.
Vì thế, các giáo sĩ người Pháp ngày càng gia tăng và đã trở thành lực lượng nòng cốt của các giáo sĩ Công Giáo
tại Việt Nam. Theo Ðào Duy Anh, tác giả quyển Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, vào
năm 1680, khoảng 30 năm sau khi Hội Truyền Giáo Hải Ngoại được thành lập, Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam cho rằng có đến 600.000 giáo dân ở miền nam (Ðường
Trong) và 200.000 ở miền bắc (Ðường Ngoài). Các con số nầy không được xác nhận
và dường như hơi cao hơn trên thực tế, vì sau hơn một thế kỷ, con số giáo dân
trên toàn quốc, sau nhiều lần tăng gia và phát triển, đã không vượt quá 320.000
(theo Linh mục Phan Phát Huồn, một sử gia Công Giáo).
Hoạt động truyền
giáo của Công Giáo vào cuối thế kỷ thứ 17 đến thời đại vua Gia Long năm 1802 có
lúc gặp khó khăn có khi được dễ dãi. Sự thăng trầm nầy thường bắt đầu và chấm
dứt với việc lên ngôi hay băng hà của các vị vua có thiện cảm hoặc chống đối
đạo. Trong nhiều trường hợp, việc này tùy thuộc vào sự thay đổi quan điểm của
các vị vua hoài nghi. Ðiển hình là trong đời chúa Trịnh Tráng, các linh mục Bồ
Ðào Nha được phép theo ông trong chuyến chinh phục miền nam để giảng đạo. Họ
được phép mở các nhà thờ tại Hà Nội và các thành phố miền bắc khác. Nhưng khi
ông biết rằng những đặc ân dành cho các
giáo sĩ Bồ ÐàoNha đã không mang lại lợi lộc trong việc trao đổi kinh tế với
nước nầy, Trịnh Tráng quyết định trục xuất các nhà truyền giáo. Ở miền nam, Cha
Ðắc Lộ là giáo sĩ đầu tiên được chúa Công Thương Vương tiếp kiến, được người
chấp nhận lễ vật và được phép kiều ngụ trong xứ. Tuy vậy chúa Công Thương Vương
đã ra lệnh hành huyết 3 Thánh đồ là An-rê, Inhaxo, và Vinh Sơn cùng nhiều giáo
dân khác (1644-1645).
Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, ba anh em Nhà Tây Sơn (1788-1802), đã thống nhất sơn
hà, dẹp bỏ chế độ cai trị của các Lãnh chúa ở miền bắc lẫn miền nam và chấm dứt
chế độ nhà Lê. Mặc dù các vị vua nhà Tây Sơn không chống đối đạo Công Giáo, đa
số các linh mục đã phải rời bỏ Việt Nam vì chiến tranh. Trong thời gian này,
hoạt động của các nhà thờ Công Giáo không được ghi chép đầy đủ. Học giả Trần
Trọng Kim đã viết trong quyển Việt Nam Sử Lược rằng "trong thời Tây Sơn,
vì đất nước bất yên, triều đình chú tâm vào việc chiến tranh và Công Giáo không
bị cấm".
Chánh sách dễ
dãi đối với Công Giáo đã dần dần thay đổi vào những năm cuối cùng của nhà Tây
Sơn. Lúc đầu triều đình tuy không có thiện cảm với các tôn giáo, không giúp đỡ
các chùa, đền hay nhà thờ, nhưng Công Giáo không bị bắt bớ vì được coi như các
đạo khác. Nhưng đến khi Giám mục Bá Ða Lộc công khai ủng hộ Hoàng tử Nguyễn Ánh
chống lại nhà Tây Sơn, thì chính quyền trong nam dưới thời Nguyễn Lữ, em của
Hoàng Ðế Quang Trung, bắt đầu bắt bớ đạo Công Giáo: nhà thờ bị tàn phá, các
giáo chức người Việt phải lẩn trốn trong rừng.
Trong suốt 9 năm
dưới thời Tây Sơn, số giáo dân giảm đi từ 100.000 xuống còn 60.000 ở miền nam.
Tuy nhiên, nhiều bằng cớ cho biết sự sút giảm nầy là do ảnh hưởng của chiến
tranh gây nên, làm cho dân số giảm xuống hơn là sự đàn áp của chánh quyền.
Ở miền bắc và
miền trung, Công Giáo được chấp nhận, không bị nhà Tây Sơn để ý trong lúc đầu
cho đến khi Giám mục Labartette ở Thuận Hóa (Huế) nhận được mật thư của Hoàng
tử Nguyễn Ánh sau khi ông đã chinh phục được miền nam. Vì lý do nầy mà 31 tín
đồ Công Giáo bị giết, trong đó có Linh mục Nguyễn Văn Triệu, nhiều người khác
phải lẩn trốn. Phản ứng khắc nghiệt của nhà Tây Sơn không phải là do sự chống
đối ngoại kiều hay đạo Công Giáo mà do sự ủng hộ Nguyễn Ánh của Giám mục Bá Ða
Lộc và các hàng giáo phẩm. Linh mục Phan Phát Huồn, tác giả quyển Việt Nam Giáo
Sử, là quyển lịch sử đầy đủ nhất của Công Giáo ở Việt Nam đã đồng ý với quan
điểm nầy, ông viết: "nếu Giám mục Bá Ða Lộc không giúp đỡ Nguyễn Ánh chinh
phục đất nước, triều đình Tây Sơn đã không sát hại tín đồ Công Giáo".
Cuối cùng,
Nguyễn Ánh đã thành công trong việc diệt trừ nhà Tây Sơn, lên ngôi lấy niên
hiệu là Gia Long. Trong thời gian 18 năm dưới triều Nguyễn, Công Giáo được yên
ổn và phát triển dù rằng nhà vua không theo đạo, cũng không ban đặc ân nào cho
Giáo hội. Vua Gia Long thường biểu lộ lòng biết ơn đối với các nhà truyền giáo,
nhất là Giám mục Bá Ða Lộc, người đã
hết lòng giúp đỡ nhà vua (dù rằng sau nầy Giám mục Bá Ða Lộc bị mất chức) cho
đến khi người qua đời. Dưới thời vua Gia Long, Giáo Hội Công Giáo có 320.000 giáo
dân, 119 Linh mục Việt Nam, 15 nhà truyền giáo ngoại quốc và 3 Giám mục. Ðiều
đáng chú ý là 80 % các Linh mục và Giáo chức Việt Nam đều ở miền bắc.
Sau khi vua Gia
Long băng hà, Giáo hội Công Giáo chỉ được một thời gian yên ổn ngắn ngủi từ năm
1820-1833, sau đó lại phải trải qua một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dưới
đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức (1833-1883). Vua Minh Mạng ra chiếu chỉ
cấm đạo Công Giáo trong toàn lãnh thổ vào ngày 6 tháng giêng năm 1833. Lệnh cấm
chỉ nầy được các vua Thiệu Trị và Tự Ðức noi theo: các nhà truyền giáo vào lãnh
thổ bất hợp pháp để rao giảng đạo Chúa sẽ bị xử tử; các linh mục Việt Nam không
bỏ đạo sẽ bị khắc chữ vào trán và bị lưu đày; giáo dân bị cấm không được theo
đạo. Nhiều giáo sĩ ngoại quốc, nhiều giáo chức Việt Nam bị giết vì chính quyền
trung ương lẫn địa phương đều tình nghi họ là những người nằm vùng, làm tay sai
cho giặc. Lại thêm các nhóm chống đối (chống Pháp) địa phương cũng không ưa gì
người Công Giáo. Về sau triều đình Việt Nam bị áp lực của Pháp, phải rút các
lệnh cấm nầy theo các hòa ước năm 1862 và 1874. Một sử gia Việt Nam, ông Phan
Thanh Khôi đã viết: "Các vị vua Việt Nam đã chống đối Công Giáo không phải
vì họ có chủ trương thái quá nhưng vì họ muốn bảo vệ sự thuần nhất của dân tộc
về chính trị cũng như về đạo đức. Họ cho rằng người Công Giáo không thờ cúng
ông bà là một đe dọa cho sự thuần nhất của quốc gia".
Có ít nhất 3 lý
do khiến các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức có chánh sách khắt khe đối với
Công Giáo.
1.
Nguyên
nhân thứ nhất là chính trị, có lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất. Vua Minh
Mạng, không phải là trưởng nam của vua Gia Long (Hoàng tử Cảnh là người kế vị
ngôi vua đã mất tại Gia Ðịnh sau chuyến thăm viếng Ba-lê với Giám mục Bá Ða
Lộc) và sự chọn ông để nối nghiệp đã bị một vài triều thần và các nhân vật có
thiện cảm với Công Giáo chống đối. Cho đến ngày nay, nhiều người Công Giáo vẫn
cho là sự chọn lựa nầy không hợp pháp, và chỉ có con của Hoàng tử Cảnh mới có
quyền kế vị vua Gia Long. Sau khi lên ngôi, vua Minh Mạng tỏ sự bất mãn đối với
những người đã chống đối ông. Vì vậy, việc cấm chỉ đạo Công Giáo đã không làm
ai ngạc nhiên.
2.
Nguyên
nhân thứ nhì là chủ trương của nhà vua muốn theo đạo truyền thống dân tộc như
Khổng giáo, đạo thờ ông bà và vì vậy ông chống đối các đạo ngoại lai mà ông cho
là "tà giáo".
3.
Lý
do thứ ba cũng là lý do chính trị: vì chính sách bành trướng của các đế quốc
thời đó nhất là nước Anh đã đô hộ Ấn Ðộ và Miến Ðiện trước đó mấy chục năm, và
nước Pháp muốn bành trướng sự hiện diện ở Á Châu sau khi bị mất Ấn Ðộ vào tay
Anh quốc. Các nhà truyền giáo bị coi là gián điệp và tín đồ Công Giáo bị coi
như những người nằm vùng, họ không ngần ngại phản bội đất nước cho sự tự do tín
ngưỡng.
Trong điều thứ
nhất của hòa ước 1862, Hoàng đế Việt Nam bị bắt buộc phải thừa nhận sự đô hộ
của nước Pháp ở miền nam và phải để cho Công Giáo được bành trướng: "Nước
Nam phải để cho giáo sĩ nước Pháp và nước I-pha-nho được tự do vào giảng đạo,
và để dân gian được tự do theo đạo".
Sự tự do tín
ngưỡng nầy không được dành cho dân miền trung và miền bắc. Họ vẫn còn bị cấm
bởi chính quyền. Các nhóm ái quốc, điển hình là nhóm Văn Thân, đã tuyên bố rằng
"Tín đồ Công Giáo đã bán nước cho thực dân Pháp. Một khi những kẻ nằm vùng
nầy bị loại trừ, người Pháp sẽ không còn hậu thuẩn nữa ắt sẽ bị tiêu
diệt". Nỗ lực của họ không ngưng cho tới năm 1884, hòa ước Patenotre đặt
toàn cõi Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, bảo đảm cho sự tự do tín ngưỡng của
đạo Công Giáo, và tái xác nhận cũng như thực thi hòa ước Giáp Tuất năm 1874.
Giáo hội Công Giáo không bao giờ mất "sự tự do giảng đạo" và tiếp tục
bành trướng trong thời gian Pháp thuộc. Vào năm 1932, Việt Nam có 13 giáo phận
và tất cả đều do các giám mục ngoại quốc đảm nhiệm. Giám mục đầu tiên của Việt
Nam là đức cha Nguyễn Bá Tòng được nhậm thánh chức vào năm 1933. Ðây là một
biến cố lịch sử cho hàng giáo phẩm Việt Nam vì trong gần bốn thế kỷ, những nhà
truyền giáo Âu châu không cố gắng đào tạo những người lãnh đạo cũng như những
linh mục trong nước theo tinh thần của các thánh đồ vào thế kỷ thứ nhất.
Một biến cố
khác, 27 năm sau, vào năm 1960, Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đề cử 3 Tổng Giám
mục (archbishoprics) và các hàng giáo phẩm đầu tiên của Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam. Ðó là giáo khu Hà Nội với 8 giáo khu (diocese) do Tổng Giám mục Trịnh Như
Khuê, giáo khu Huế với 3 giáo khu (dioceses) do Tổng Giám mục Ngô Ðình Thục,
giáo khu Sài-gòn với 5 giáo khu do Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình lảnh đạo.
Trong số 16 Giám mục được Ðức Giáo Hoàng bổ nhiệm cho các giáo phận trên, có 14
Giám mục Việt Nam.
Trên thực tế, Công
Giáo là tôn giáo có tổ chức, hệ thống nhất ở Việt Nam ngày nay. Với 1.454.842
giáo dân ở miền nam và 833.468 giáo dân ở miền bắc, Công Giáo là một cộng đồng
lớn nhất và mạnh mẽ nhất trong xã hội Việt Nam. Ngoài công việc truyền giảng và
huấn luyện các giới lãnh đạo trong nước, Giáo hội Công Giáo với 24 giáo phận
(orders) có được một hệ thống rộng lớn và hữu hiệu chuyên lo về vấn đề giáo dục
và xã hội. Ðiều này đã làm cho hằng ngàn người trở lại đạo mỗi năm và đã gây
ảnh hưởng sâu rộng trong giới trí thức. (Trích dịch từ luận án tiến sĩ của Mục
sư Lê Hoàng Phu, 1972).
Ðạo Thiên Chúa dưới mắt sử gia Trần Trọng Kim
(Trích Việt Nam Sử Lược[1])
Nguyên khi xưa
toàn xứ Âu-la-ba (Âu Châu) không có nhất định một tông giáo nào cả. Mỗi
dân tộc thờ một vị thần riêng của mình. Thường hay lấy cái lực hoạt động của
tạo hóa mà tưởng tượng ra các vị thần, rồi làm đền, làm đài, để thờ cúng. Như
dân tộc Hi-lạp (Grec) và dân tộc La-mã (Romain) thờ thần Giu-bi-te (Jupiter),
thần A-bô-lông (Apollon) và các vị thần khác vậy. Duy có dân tộc Do-thái
(Juifs) ở đất Tiểu Á-tế-á, nay là đất Palestine đã được độc lập, chỉ thờ một vị
thần gọi là Jéhovah ở thành Gia-lỗ-tán-lĩnh (Jerusalem). Dân ấy tin rằng thần
Jéhovah sinh hóa vạn vật và người; cho nên người chỉ phải thờ một vị thần ấy mà
thôi. Ðến đời dân La-mã đã kiêm tính được cả đất Tiểu Á-tế-á, đất bắc
A-phi-lị-gia (Phi Châu) và đất tây nam Âu-la-ba, dân Do-thái cũng thuộc
La-mã, mà đạo Do-thái bấy giờ cũng đã suy lắm rồi. Lúc ấy đức Gia-tô ra đời,
nhân đạo Do-thái mà lập ra đạo mới[2]
dạy người lấy sự yêu mến và tôn kính Thiên Chúa làm gốc, lấy bụng từ bi nhân
thứ, coi người như anh em ruột thịt làm cốt. Từ đó về sau các môn đồ đem đạo ấy
đi truyền bá các nơi. Ông Saint Pierre thì sáng lập giáo đường ở kinh thành
La-mã, ông Saint Paul thì đi truyền đạo ở khắp trong nước.
Lúc đầu đạo
Thiên Chúa bị nhiều phen vua La-mã nghiêm cấm, dùng cực hình mà giết các giáo
sĩ và những người theo đạo mới, nhưng dầu nguy nan thế nào mặc lòng, các môn đồ
cứ một niềm đi truyền đạo khắp bốn phương. Mãi đến đầu đệ tứ thế kỷ (313) vua
La-mã là Constantin mới cho giảng đạo Thiên chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy
giờ trở đi đạo Thiên Chúa một ngày một thịnh, lập giáo hoàng để thống nhất việc
giáo, đặt giám mục để coi việc giáo ở các nơi, lại sai giáo sĩ đi truyền đạo
khắp trong thiên hạ: hễ ở đâu có người là có giáo sĩ đến dạy đạo. Bởi vậy cho
nên chẳng bao lâu mà toàn Âu đều theo đạo Thiên chúa cả.
Ở bên Á đông ta
thi từ đời nhà Ðường (618-907) sử chép có Cảnh giáo[3]
tức là một phái Gia-tô giáo đã sang Tàu, nhưng vì bấy giờ đạo Phật đang thịnh,
cho nên đạo Cảnh giáo mất dần đi. Mãi đến đời nhà Nguyên, nhà Minh mới thật có
giáo sĩ sang giảng đạo Gia-tô ở nước Tàu.
Ở nước Nam ta từ
khi đã có người Âu-la-ba sang buôn bán, thì tất là có giáo sĩ sang dạy đạo. Cứ
theo sách Khâm Ðịnh Việt Sử, thì năm Nguyên Hòa nguyên niên đời vua Trang tông
nhà Lê (1533) có người Tây tên là I-nê-khu đi đường bể vào giảng đạo Thiên chúa
ở làng Ninh Cường, làng Quần Anh, thuộc huyện Nam Chân (tức là Nam Trực) và ở
làng Trà Lũ, thuộc huyện Giao Thủy.
Sách Nam sử của
Trương vĩnh Ký chép rằng năm bính thân (1596) đời ông Nguyễn Hoàng có người
giáo sĩ Tây-ban-nha tên là Diego Adverte vào giảng đạo trong Nam trước hết cả.
Nhưng lúc bấy giờ lại có mấy chiếc tàu Tây-ban-nha cùng đến, chúa Nguyễn sợ có
ý quấy nhiễu gì chăng, bèn đuổi đi.
Ðến năm ất mão
(1615) đời chúa Sãi, giáo sĩ là P. Busomi lại đến giảng đạo, rồi đến năm giáp
tí (1624) có giáo sĩ tên là Jean Rhodes, người Pháp-lan-tây, đến giảng đạo ở
Phú xuân và lập ra các giáo đường. Năm bính dần (1626) đời vua Lê Thần-tông,
giáo sĩ Baldinoti vào giảng đạo ở ngoài Bắc, bị chúa Trịnh không cho, phải bỏ
đi. Ðược ít lâu ông Jean Rhodes (Alexandre de Rhodes) ở trong Nam ra Bắc
vào yết kiến chúa Trịnh và đem dâng cái đồng hồ quả lắc, chúa Trịnh cho ông
Jean Rhodes được giảng đạo tại kinh đô.
Từ đó về sau các
giáo sĩ cứ dần dần vào nước dạy đạo, mà người mình càng ngày càng theo đạo cũng
nhiều. Nhưng vì nước ta tự xưa đến nay vẫn theo Nho giáo, lấy sự thờ cúng ông
cha làm trọng, lấy sự tế tự thần thánh làm phải, mà lệ nước thì lấy sự cúng tế
làm một việc rất quan trọng. Ðột nhiên thấy nhiều người mình theo đạo Thiên
chúa, bỏ cả các thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo đạo mới, bởi vậy cho nên
trong Nam ngoài Bắc, vua chúa đều cho đạo ấy là một tả đạo, làm hủy hoại cả cái
phong hóa của nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm không cho người trong nước
theo đạo mới nữa, và đặt ra phép nghiêm để bắt tội những kẻ không theo chỉ dụ
ấy.
Cứ theo trong sử
thì năm tân vị (1631) ở trong Nam, chúa Thượng là Nguyễn-phúc Lan cấm không cho
người Tây vào giảng đạo ở trong nước.
Năm quí mão
(1663) ở ngoài Bắc, chúa Trịnh là Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo sĩ và cấm không
cho người mình theo đạo Gia-tô.
Năm giáp thìn
(1644) chúa Hiền ở miền Nam bắt giết những người đi giảng đạo ở Ðà Nẵng.
Năm bính tí
(1696) đời vua Lê Hi-tông, Trịnh Căn bắt đốt phá cả những sách đạo và nhà đạo ở
các nơi và đuổi những người giảng đạo ra ngoài nước.
Năm nhâm thìn
(1712) đời vua Lê Dụ-tông, Trịnh Cương bắt những người theo đạo Gia-tô phải cạo
trán và khắc vào mặt bốn chữ "học Hoa-lan đạo[4]".
Năm giáp tuất
(1754) đời Cảnh-hưng, Trịnh Doanh lại nghiêm cấm một cách rất ngặt, không cho
người ta đi theo đạo, và lại giết cả các đạo trưởng và đạo đồ.
Từ đó về sau
việc cấm đạo ngày một nghiêm, mà người đi giảng đạo cũng không lấy luật nước
làm sợ, cứ cố sức dụ cho được nhiều người theo đạo. Rồi dần dần người trong
nước phân ra bên lương bên giáo, ghen ghét nhau hơn người cừu địch. Vua quan
thì thấy dùng phép thường không cấm được, mới dùng đến cực hình để mà trừng
trị, giết hại bao nhiêu người vô tội.
Tóm lại mà xét,
thì giả sử người ngoại quốc vào nước ta mà chỉ có việc buôn bán mà thôi, thì
chắc rằng nước ta xưa nay vốn là một nước văn hiến, vua quan ta cũng không có
lẽ gì mà ngăn cấm; nhưng bởi vì khi đã
quan hệ với việc sùng tín, thì dù hay dở thế nào mặc lòng, người ta ai cũng cho
sự sùng tín của mình là phải hơn, thành ra không ai khoan dung cho ai, rồi cứ
phải dùng thế lực mà đè nén nhau. Cũng vì thế cho nên nước ta không chịu suy
xét lẽ phải trái cho kỹ càng, làm lắm sự tàn ác để đến nỗi mất cả sự hòa hiếu
với các nước Tây dương và gây nên cái mối biến loạn cho nước nhà vậy.
Sự cấm đạo đời
vua Minh Mạng
Từ khi vua
Thánh-tổ (Minh Mạng) lên ngôi, ngài đã có ý không cho người ngoại quốc
vào giảng đạo ở trong nước. Ðến năm ất dậu (1825), khi chiếc tàu Thétis vào cửa
Ðà-nẵng, có một người giáo sĩ tên là Rogerot ở lại đi giảng đạo các nơi, vua
Thánh-tổ nhân dịp ấy mới có dụ cấm đạo, và truyền cho các quan phải khám xét
các tàu bè của ngoại quốc ra vào cửa bể. Trong dụ nói rằng: "Ðạo phương
Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải
nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo".
Ngài lại sai tìm bao nhiêu những
giáo sĩ ở trong nước đem cả về Huế để dịch những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ
ý là không phải vì việc dịch sách, nhưng là để cho khỏi đi giảng đạo ở chỗ
hương thôn.
Lúc bấy giờ
không phải là một mình vua Thánh-tổ ghét đạo mà thôi, phần nhiều những quan lại
cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cấm
thế nào mặc lòng, trong nước vẫn có người đi giảng đạo, nhà vua lấy điều đó làm
trái phép, lại có ra dụ lần nữa truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo,và ai bắt
được giáo sĩ đem nộp thì được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử
giảo, và ở các nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo.
Từ đó trở đi,
trong Nam ngoài Bắc, chổ nào cũng có giặc giã nổi lên, nhà vua ngờ cho dân bên
đạo theo giúp quân giặc, lại càng cấm nghiệt: từ năm giáp ngọ (1834) cho đến
năm mậu tuất (1838), có nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi bắt
được cố Du (P. Marchand) ở Gia-định rồi, sự giết đạo lại dữ hơn trước nữa.
Nhà vua một mặt
thì cấm đạo, một mặt thì ban những huấn điều ra để khuyên dân giữ lấy đạo
chính. Nhưng nhà vua mà dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu, thì dân sự lại khổ
sở bấy nhiêu, chứ lòng tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm được. Vả lại
đạo Thiên chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng nhân ái, việc
gì mà làm khổ dân sự như thế? Các giáo sĩ bây giờ cứ một niềm liều sống chết đi
truyền giáo cho được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hằng mấy tháng để dạy
đạo. Những người có chí bền chặt như vậy, thì hình phạt cũng vô ích mà thôi.
Năm mậu tuất (1838), vua Thánh-tổ thấy cấm thế nào cũng không được những người
đi giảng đạo trong nước, ngài bèn sai sứ sang Pháp để điều đình với chính phủ
Pháp về việc ấy. Song khi sứ thần Việt Nam ta sang đến nơi, thì hội Ngoại quốc
truyền đạo xin Pháp hoàng là vua Louis Philippe đừng tiếp - theo sách Histoire
de la Cochinchine Francaise của ông Cultru -. Sứ thần ta phải trở về không; khi
về đến Huế thì vua Thánh-tổ đã mất rồi.
Việc giao thiệp
với nước Pháp đời vua Thiệu Trị
Từ khi vua
Hiến-tổ (Thiệu Trị) lên trị vì, thì sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít.
Nhưng mà triều đình vẫn ghét đạo, mà những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn giam cả ở
Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu
Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Ðà-nẵng xin cho năm người giáo sĩ được
tha.
Qua năm ất tị
(1845) là năm Thiệu Trị thứ năm có một giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Bây
giờ có người quản tàu Mỹ-lợi-kiên ở Ðà Nẵng xin mãi không được, mới báo tin cho
hải quân thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết. Thiếu tướng sai quân đem chiếc
tàu Alcmène vào Ðà Nẵng lĩnh giám mục ra.
Năm đinh vị (1847) quan nước
Pháp được tin rằng ở Huế không còn giáo sĩ phải giam nữa, mới sai đại tá De
Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Ðà
Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo
đạo mới.
Lúc hai bên còn
đang thương nghị về việc ấy, thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta ra đóng gần
tàu của Pháp, và ở trên bờ lại thấy có quân ta sắp sửa đồn lũy, mới nghi có sự
phản trắc gì chăng, bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo
buồm ra bể.
Vua Hiến-tổ thấy
sự trạng như thế, tức giận vô cùng, lại có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng
đạo, và trị tội những người trong nước đi theo đạo.
Việc tàu nước
Pháp vào bắn ở Ðà Nẵng xong được mấy tháng, thì vua Hiến-tổ phải bệnh mất. Bấy
giờ là tháng chín năm đinh vị (1847), năm Thiệu Trị thứ bảy. Ngài làm vua được
bảy năm, thọ 37 tuổi, miếu hiệu là Hiến-tổ Chương-hoàng-đế.
Việc cấm đạo đời
vua Tự Ðức
Việc cấm đạo thì
từ năm mậu thân (1848) là năm Tự Ðức nguyên niên, vua Dực-tông mới lên ngôi, đã
có dụ cấm đạo. Lần ấy trong dụ nói rằng những người ngoại quốc vào giảng đạo,
thì phải tội chết, những người đạo trưởng ở trong nước mà không chịu bỏ đạo,
thì phải khắc chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở chỗ nước độc. Còn những ngu dân
thì các quan phải ngăn cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông,
chứ đừng có giết hại v. v...
Ðến năm tân hợi
(1851) là năm Tự Ðức thứ tư, lại có dụ ra cấm đạo. Lần này, cấm nghiệt hơn lần
trước, và có mấy người giáo sĩ ngoại quốc phải giết.
Sức đã không đủ
giữ nước mà lại cứ làm điều tàn ác. Ðã không cho người ngoại quốc vào buôn bán,
lại đem làm tội những người đi giảng đạo, bởi thế cho nên nước Pháp và nước
I-pha-nho mới nhân cớ ấy mà đánh nước ta vậy.
Hoà ước năm Nhâm
Tuất (1862)
Ðến hôm 9 tháng
5 thì thiếu tướng Bonard và sứ thần nước Nam ta là ông Phan thanh Giản và ông
Lâm duy Tiếp ký tờ hòa ước. Tờ hòa ước ấy có 12 khoản, khoản đầu tiên có liên
quan đến tôn giáo:
1.
Nước
Nam phải để cho giáo sĩ nước Pháp và nước I-pha-nho được tự do vào giảng đạo,
và để dân gian được tự do theo đạo.
Hòa ước năm Giáp
Tuất (1874)
Ngày 27 tháng
giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, hải quân thiếu tướng Dupré và
ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường ký tờ hòa ước cả thảy 22 khoản, khoản IX lập
lại việc giảng đạo.
Khoản IX. Vua nước Nam phải để cho giáo sĩ được tự do
đi giảng đạo, và để cho dân trong
nước được tự do theo đạo.
[1] Các chữ nghiên trong dấu ngoặc được chua vào để dể hiểu.
[2] Ðạo của ông Gia-tô lập ra
cho nên ta thường gọi là đạo Gia-tô; lại vì đạo ấy chỉ thờ Thiên Chúa mà thôi,
cho nên lại gọi là đạo Thiên Chúa. Có phái gọi là đạo Cơ-đốc bởi chữ Christ là
bậc cứu thế.
[3] Cảnh giáo là một phái đạo
Gia-tô của người chủ giáo tên là Nestorius lập ra từ đệ ngũ thế kỷ ở Ðông
La-mã, rồi truyền sang nước Ba-tư (Perse) và nước Tàu.
[4] Hoa-lan
tức là Hòa-lan (Hollande). Người Hòa-lan sang buôn bán ở ngoài Bắc trước hết cả
cho nên mới gọi là đạo Hòa-lan. Vả lúc bấy giờ người Việt Nam ta không phân
biệt được những nước nào, hễ thấy người Tây thì thường cứ gọi là Hòa-lan.